Theo y thư cổ, đan sâm vị đắng tính hơi lạnh, vào được hai kinh tâm và can, có công dụng hoạt huyết khứ ứ, tiêu thũng chỉ thống, lương huyết dưỡng huyết và an thần; thường được dùng để chữa các chứng bệnh của đông y do huyết ứ gây nên.
Trong y học cổ truyền ai cũng biết đến Tứ vật thang, một bài thuốc rất đơn giản chỉ gồm 4 vị: thục địa, đương quy, bạch thược và xuyên khung, nhưng lại là một phương thang “bổ huyết điều huyết” kinh điển hết sức cơ bản và trọng yếu, được các thầy thuốc y học cổ truyền sử dụng thường xuyên trong trị bệnh.
Nhưng cũng từ xa xưa giới chuyên ngành đông y, đông dược đã lưu truyền câu ngạn ngữ: “Nhất vị đan sâm ẩm, công đồng Tứ vật thang” (một vị đan sâm cũng có tác dụng ngang với cả bài thuốc Tứ vật).
Đan sâm (Radix Salviae multiorrhizae) thực chất là rễ phơi hay sấy khô của cây đan sâm có tên khoa học là Salvia miltiorrhiza Bunge. “đan” là đỏ, vì rễ cây này trông giống sâm mà lại có màu đỏ nên gọi là đan sâm. Theo y thư cổ, đan sâm vị đắng tính hơi lạnh, vào được hai kinh tâm và can, có công dụng hoạt huyết khứ ứ, tiêu thũng chỉ thống, lương huyết dưỡng huyết và an thần; thường được dùng để chữa các chứng bệnh của đông y do huyết ứ gây nên.
Trên cơ sở nghiên cứu dược lý này, người ta đã dùng đan sâm và các chế phẩm của nó để điều trị khá nhiều bệnh theo y học hiện đại như viêm gan, viêm thận cấp và mạn tính, hen phế quản, viêm thần kinh ngoại vi do đái đường, đau dây thần kinh tam thoa, đau đầu do mạch máu, ù tai do nguyên nhân thần kinh, mụn nhọt… và đặc biệt là các bệnh lý tim mạch như thiểu năng tuần hoàn não, tai biến mạch não, tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, thiểu năng mạch vành, xuất huyết võng mạc, viêm động tĩnh mạch…
Trong đông y ngoài việc dùng đan sâm đơn thuần hoặc phối hợp với các vị thuốc khác dưới dạng thuốc sắc, viên hoàn hoặc bột thuốc theo lối cổ truyền, người ta còn ứng dụng công nghệ hiện đại để sản xuất và đưa vào sử dụng đan sâm với hình thức dịch tiêm truyền, viên nén, viên nang, trà tan… Tuy nhiên, các dạng thuốc này đều khá phức tạp, khó chế, khó dùng và đắt tiền, chưa thích hợp với điều kiện kinh tế hiện nay và yêu cầu của công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Bởi vậy, việc chọn dùng đan sâm dưới một dạng thuốc tương đối dân dã, dễ chế, dễ dùng và rẻ tiền mà vẫn giữ được tác dụng ở một mức độ đáng kể là điều hết sức cần thiết.
Đan sâm ẩm, một loại trà dược được ghi trong sách Trung Quốc dược thiện học, có lẽ đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu này. Cách chế và cách dùng cụ thể như sau:
Đan sâm 6 g rửa sạch, thái mỏng rồi hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 – 20 phút có thể dùng được, uống thay trà trong một ngày. Chú ý chọn loại to chắc, khô, mềm, sắc ngoài đỏ tía, sắc trong vàng thâm mịn, không có xơ và không có rễ con là tốt. Nên dùng loại trà dược này với mục đích dự phòng tích cực, điều trị hỗ trợ hoặc điều trị duy trì cho những bệnh đã nêu ở trên. Khi uống, nếu bị đi lỏng thì có thể sao qua đan sâm trước khi dùng hoặc cho thêm vào ấm trà vài lát gừng tươi. Riêng đối với bệnh lý động mạch vành tim, để nâng cao hiệu quả trị liệu có thể phối hợp đan sâm với một số vị thuốc hoạt huyết khác như đàn hương, tam thất, hồng hoa, nguyệt lý hoa… Ví dụ: đan sâm 15g, tam thất 100g, hai thứ tán vụn, mỗi ngày dùng 10g, bọc trong túi vải , hãm uống thay trà hoặc đan sâm 9g, trà búp 3g, hai thứ tán vụn hãm uống thay trà trong ngày. Cũng cần lưu ý là đan sâm ẩm không được dùng cho phụ nữ có thai và những người không có có hội chứng huyết ứ.
Khánh Hiển